Căng thẳng có mối liên hệ chặt chẽ với cơn động kinh. Từ góc độ hóa học, có nhiều bằng chứng cho thấy hormone tiết ra trong trạng thái căng thẳng góp phần gây ra bệnh lý động kinh bằng cách hạ thấp ngưỡng co giật, khiến cơn động kinh dễ xảy ra hơn.
Cơ chế khoa học của stress
Cơ thể con người là một hệ thống cực kỳ phức tạp. Nhiều liệu pháp thay thế được thảo luận và thiết kế để giúp đạt được sự cân bằng và hài hòa trong hệ thống này. Các truyền thống trị liệu khác nhau gợi lên nhiều ý tưởng thể hiện sự cân bằng này: Ví dụ, 'âm' và 'dương' trong
y học cổ truyền, các yếu tố cơ bản trong truyền thống Ayurvedic và nhịp điệu được điều khiển trong liệu pháp xương sọ não. Nhiều cách tiếp cận trong số này bao gồm một yếu tố tâm linh. Ý tưởng cơ bản là như nhau; cân bằng là lý tưởng mà người ta nên phấn đấu.
Căng thẳng (stress) đề cập đến bất cứ thứ gì đặt một hệ thống dưới áp lực và làm xáo trộn trạng thái cân bằng tự nhiên của nó. Trong trường hợp của cơ thể con người, sự căng thẳng này có thể có nhiều hình thức. Nó có thể đến từ các yếu tố bên ngoài khi cơ thể phải vật lộn để điều chỉnh, ví dụ, với tiếng ồn, ánh sáng hoặc ô nhiễm quá mức. Cơ thể con người cũng có thể bị căng thẳng ở cấp độ sinh lý do dinh dưỡng kém hoặc các loại thuốc được đưa vào hệ thống.
Hình thức căng thẳng mà quen thuộc nhất trên cơ sở hàng ngày là loại tâm lý. Đây là loại căng thẳng bắt nguồn từ những lo lắng mà không thể đối phó. Những dạng căng thẳng khác nhau này thường hợp nhất với nhau. Nhiều người thấy nơi làm việc của họ căng thẳng và cảm thấy kiệt sức sau một ngày làm việc. Ánh sáng khắc nghiệt, đồng nghiệp khó tính và thời gian hạn hẹp, không có thời gian cho bữa trưa có nghĩa là cơ thể sẽ phải chịu một loạt các yếu tố gây căng thẳng vào cuối ngày làm việc. Biết rằng tất cả bắt đầu lại sau vài giờ vào ngày hôm sau cũng không giúp được gì. Mức độ căng thẳng rất cao cũng có thể được gây ra bởi các sự kiện trong cuộc sống mà ít kiểm soát được, ví dụ như bệnh tật và tử vong ở những người gần gũi hoặc thiên tai. Đối với một số người, chỉ cần xem các báo cáo truyền hình về các sự kiện tàn phá xảy ra cách xa hàng nghìn dặm, chẳng hạn như tsumani Nhật Bản năm 2011 và hậu quả của nó, có thể làm tăng mức độ căng thẳng của họ.
Cảm giác căng thẳng đại diện cho một phần phản ứng của cơ thể con người đối với mối đe dọa hoặc nguy hiểm được nhận thức. Ngay khi chúng ta nhận thức được mối đe dọa, hoặc đôi khi chỉ là khả năng nguy hiểm gia tăng, cơ thể sẽ phản ứng bằng cách giải phóng các hormone như cortisol và adrenaline, giúp cơ thể sẵn sàng hành động. Những hóa chất này giúp tinh thần tỉnh táo hơn và chuẩn bị cơ bắp về thể chất để sẵn sàng chiến đấu hoặc chạy trốn khỏi nguy hiểm. Điều này được gọi là "phản ứng bay hoặc chiến đấu".
Quay trở lại lịch sử tiến hóa của loài người, gần như tất cả các mối đe dọa mà con người phải đối mặt đều là sự sống và chân tay. Tuy nhiên, hệ thống tương tự sẽ bắt đầu vào ngày hôm nay khi ông chủ hét vào mặt bạn, hoặc xe buýt của bạn bị kẹt xe khi bạn đã trễ cuộc hẹn. Các hormone chuẩn bị cho tín hiệu chạy trốn hoặc chiến đấu vẫn được giải phóng, nhưng cả hai tình huống đều không yêu cầu phản ứng thể chất. Điều này khiến cơ thể rơi vào trạng thái không cân bằng, không thoải mái. Nếu mức độ tăng của adrenaline và các hóa chất khác mà cơ thể tạo ra để đáp ứng với mối đe dọa nhận thức không được sử dụng để thúc đẩy phản ứng vật lý, thì mức độ cao của các hormone này lan tỏa trong cơ thể có thể bắt đầu gây ra thiệt hại về thể chất. Hầu hết mọi người đều nhận thức được rằng mức độ căng thẳng cao liên tục đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của bệnh tim. Các nhà khoa học hiện cũng đã phát hiện ra rằng nồng độ cortisol cao, một loại hormone quan trọng được cơ thể tiết ra khi căng thẳng cũng có thể ảnh hưởng đến não. Rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD) là một tình trạng tâm thần kinh ảnh hưởng đến những người đã trải qua một sự kiện rất đau thương. Họ có thể gặp rắc rối bởi những hồi tưởng sống động về vụ việc trong nhiều năm. Họ cũng có nồng độ cortisol trong máu tăng cao trong nhiều tháng và đôi khi nhiều năm sau sự kiện. Nó giống như thể cơ thể không thể tự thiết lập lại mức độ bình thường và nó giữ cho cá nhân luôn ở trạng thái sẵn sàng đối mặt với nguy hiểm. Các nghiên cứu MRI đã chỉ ra rằng, theo thời gian, nồng độ cortisol cao này bắt đầu làm tổn thương các bộ phận của não, đặc biệt là vùng hải mã, cấu trúc não thường liên quan đến
bệnh động kinh.
Căng thẳng không hoàn toàn xấu. Một mức độ căng thẳng nhất định có thể giúp ích cho con người trong một số tình huống. Thật khó để thực sự tập trung đúng mức nếu não bộ cảm thấy quá thư giãn. Đây là lý do tại sao “sự lo lắng trước kỳ thi” có thể giúp ích cho học sinh, khiến tinh thần họ tỉnh táo hơn trong ngày trọng đại.
Quá nhiều căng thẳng
Tuy nhiên, quá nhiều căng thẳng có thể đẩy ai đó đến bờ vực thẳm và khiến họ làm việc kém hiệu quả hơn nhiều so với mức có thể. Hầu như không thể tập trung đúng mức nếu cơ thể bị căng thẳng quá mức. Các nhà tâm lý học sử dụng đường cong hình cầu vồng trên biểu đồ để mô tả ảnh hưởng của căng thẳng đến hiệu suất. Ban đầu, khi căng thẳng tăng lên thì hiệu suất cũng tăng theo, nhưng khi mức độ căng thẳng tiếp tục tăng, hiệu suất sẽ giảm xuống.
Loại bỏ hoàn toàn căng thẳng khỏi cuộc sống của mọi người không phải là một ý tưởng hay. Ở mức độ phù hợp, hormone căng thẳng có thể khiến chúng ta cảm thấy phấn khích, thậm chí hồ hởi. Đây là lý do tại sao trẻ nhỏ dường như không thể giữ yên khi chúng phấn khích. Cơ thể của họ phản ứng vật lý với năng lượng tăng lên do các hormone gây căng thẳng giải phóng. Khi trưởng thành, chúng ta học cách kìm nén phản ứng tự nhiên này của cơ thể. Một số sự kiện như Giáng sinh, các ngày lễ và đám cưới đều liên quan đến sự gia tăng hormone gây căng thẳng, nhưng đa số thường trải qua những thay đổi trong cơ thể để phản ứng với những sự kiện này dưới dạng sự phấn khích được dự đoán trước (ít nhất là trong hầu hết các trường hợp dễ dẫn đến cảm giác hoảng sợ gia tăng, ngay cả trong những dịp vui vẻ này). Chìa khóa để quản lý căng thẳng là đạt được sự cân bằng vừa phải, phù hợp.
Căng thẳng có mối liên hệ chặt chẽ với
cơn động kinh. Từ góc độ hóa học, có nhiều bằng chứng cho thấy hormone tiết ra trong trạng thái căng thẳng góp phần gây ra bệnh lý động kinh bằng cách hạ thấp ngưỡng co giật, khiến cơn động kinh dễ xảy ra hơn.
Ngoài ra còn có rất nhiều bằng chứng lâm sàng liên quan đến căng thẳng và co giật. Mặc dù câu chuyện phức tạp hơn đối với những người mắc chứng động kinh khi còn nhỏ, nhưng nhiều người lớn trải qua cơn động kinh đầu tiên trong bối cảnh một sự kiện hoặc một loạt sự kiện căng thẳng.
Quản lý căng thẳng giúp ích cho bệnh động kinh
Có nhiều phương pháp có thể làm giảm bớt căng thẳng về thể chất trên cơ thể. Duy trì lối sống lành mạnh với chế độ ăn uống cân bằng tốt đã trở thành câu thần chú thời hiện đại giúp chúng ta tránh được
bệnh ung thư và bệnh tim. Thực tế là, một cơ thể khỏe mạnh, cân đối là lợi thế trong hầu hết mọi bệnh tật, kể cả các bệnh về thần kinh. Các nhà nghiên cứu ở Thụy Điển gần đây đã phát hiện ra rằng những người thừa cân ở tuổi trung niên sẽ tăng nguy cơ mắc bệnh Alzheimer lên 70%. Trong bệnh động kinh, cũng như trong cuộc sống, thể chất từng người càng khỏe mạnh thì càng tốt.
Quản lý căng thẳng tâm lý có thể phức tạp hơn. Một số nghiên cứu đã xem xét liệu việc dạy các phương pháp thư giãn chính thức cho những người bị động kinh có giúp kiểm soát cơn động kinh tốt hơn hay không. Thật không may, kết quả không quá tích cực. Mặc dù những người tham gia vào các nghiên cứu này thường cảm thấy ít lo lắng hơn, nhưng điều này không làm giảm đáng kể số cơn động kinh trong toàn bộ nhóm. Một trong những lý do tại sao những nỗ lực điều trị này không thành công lắm có thể là do họ đã áp dụng cách tiếp cận 'một kích thước phù hợp cho tất cả' để quản lý căng thẳng. Chính phản ứng của chúng ta trước tác nhân gây căng thẳng sẽ quyết định liệu có bị căng thẳng vì nó hay không. Tất cả mọi người đều rất khác nhau về những gì cảm thấy căng thẳng hàng ngày. Một số người dường như có thể nhún vai bỏ qua những cuộc tranh cãi nhỏ trong khi những người khác để nỗi đau kéo dài nhiều ngày. Một số người mơ mộng tìm cách vượt qua hàng người đang di chuyển chậm, trong khi những người khác ngày càng trở nên giận dữ khi từng phút trôi qua. Những khác biệt cá nhân trong cách mỗi người phản ứng với những tình huống có thể gây căng thẳng này là do sự kết hợp độc đáo giữa những đặc điểm tính cách cơ bản của mỗi các nhân và những điều đã học được trong suốt chặng đường dài.
Do đó, việc học cách quản lý căng thẳng hiệu quả sẽ là một quá trình mang tính cá nhân: Đánh giá cao rằng chính phản ứng cá nhân trước một sự kiện gây ra căng thẳng chứ không phải bản thân sự kiện đó gây căng thẳng về bản chất. Đây là bước đầu tiên trên đường đi. Việc tìm ra những cách mới để ứng phó với những sự kiện thường bị cho là căng thẳng có thể khó khăn. Đôi khi, nó liên quan đến việc hoàn tác việc học tập suốt đời. Nhiều kỹ thuật và liệu pháp được thảo luận đề cập đến vấn đề này ở mức độ ít nhiều. Một số, chẳng hạn như các kỹ thuật thiền định, dạy thư giãn một cách rõ ràng. Những loại khác, chẳng hạn như thuốc vi lượng đồng căn có thể có tác dụng giảm lo lắng theo cách gián tiếp hơn. Tìm kiếm một phương pháp trị liệu tin tưởng và cảm thấy thoải mái có thể giúp người bệnh giảm bớt những lo lắng về chứng động kinh và căng thẳng trong cuộc sống nói chung. Bất kể nền tảng khoa học có thể thay đổi của bất kỳ phương pháp nào, việc giảm căng thẳng đi kèm với liệu pháp này có thể khiến nó trở thành vũ khí quý giá trong kho vũ khí chống lại cơn động kinh.
BS. Tú Uyên (Thọ Xuân Đường)