Bệnh viêm màng não là một trong những nguyên nhân gây động kinh ở trẻ em. Động kinh có thể là một biến chứng sau viêm màng não cấp. Một phát hiện rất đáng sợ cho thấy một tỷ lệ cao (lên đến 75%) của tất cả các trường hợp viêm màng não đe dọa tính mạng xảy ra ở trẻ nhỏ dưới 5 tuổi.
Viêm màng não cũng trở thành một vấn đề ngày càng nghiêm trọng ở thanh thiếu niên và thanh niên trong độ tuổi từ 15– 24, do một số loại bệnh truyền nhiễm có thể lây lan dễ dàng trong môi trường trường học đông đúc.
Trong tất cả các loại viêm màng não, viêm màng não do vi khuẩn được coi là nghiêm trọng nhất và có thể đe dọa tính mạng.
Viêm màng não là một tình trạng nghiêm trọng vì nó đe dọa trực tiếp đến sức khỏe của não bộ và gây ra nhiều nguy cơ đối với hệ thần kinh trung ương. Khi phát hiện bệnh cần được điều trị ngay để ngăn ngừa biến chứng, nhất là biến chứng động kinh.
1. Viêm màng não là gì?
Viêm màng não là một bệnh nhiễm trùng có đặc điểm là “viêm các màng bao quanh não và tủy sống”. Viêm màng não có thể do nhiễm virus (loại phổ biến nhất), nhiễm vi khuẩn hoặc hiếm khi là nhiễm ký sinh trùng hoặc nấm. Trẻ sơ sinh, trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn đều có thể bị viêm màng não, mặc dù các loại viêm màng não khác nhau có xu hướng ảnh hưởng đến các nhóm tuổi khác nhau.
Viêm màng não gây ra rối loạn chức năng của màng não, dịch não tủy (là chất lỏng bảo vệ các cấu trúc của hệ thần kinh trung ương).
Màng não được định nghĩa là “ba màng (màng cứng, màng nhện và màng đệm) lót hộp sọ, ống đốt sống và bao bọc não và tủy sống”. Màng não, cùng với dịch não tủy, về cơ bản đóng vai trò bảo vệ não, tạo thành một hàng rào giúp ngăn chặn vi trùng hoặc các chấn thương ảnh hưởng trực tiếp đến não.
Dịch não tủy nằm ở đầu và dọc theo toàn bộ tủy sống, giúp tủy sống “nổi” và đóng vai trò như một bộ đệm chống lại chấn thương. Khi phát triển bệnh viêm màng não, vi trùng (virus, vi khuẩn hoặc nấm) gây bệnh sẽ xâm nhập vào dịch não tủy.
2. Các triệu chứng và biến chứng của bệnh viêm màng não
Các triệu chứng viêm màng não có rất nhiều điểm chung với các triệu chứng của bệnh cúm, đó là lý do tại sao hai căn bệnh này thường bị nhầm lẫn. Các triệu chứng của viêm màng não do vi khuẩn và các triệu chứng của viêm màng não do virus phát triển nhanh hơn so với viêm màng tủy sống hoặc các loại khác, thường diễn ra trong vài ngày.
Các triệu chứng viêm màng não có thể khác nhau chút ít tùy thuộc vào loại viêm màng não. Các triệu chứng sốt, đau đầu dữ dội, nôn mửa và cứng cổ là những triệu chứng phổ biến trong tất cả các loại. Đối với nhiều bệnh nhân, nhiễm trùng đầu tiên bắt đầu là nhiễm trùng đường hô hấp hoặc tai, sau đó lan đến các cơ quan, máu và não.
Ở trẻ em (trên 2 tuổi) và người lớn, các triệu chứng viêm màng não sau đây là phổ biến nhất:
-
Buồn nôn, co thắt dạ dày, nôn vọt;
-
Mệt mỏi, buồn ngủ, uể oải;
-
Nhầm lẫn và mất phương hướng;
-
Đau đầu dữ dội;
-
Nhạy cảm với ánh sáng chói;
-
Kém ăn và giảm khát;
-
Màu da bất thường hoặc phát ban trên da;
-
Tay và chân rất lạnh;
-
Đau cơ hoặc đau khớp;
-
Thở nhanh và ớn lạnh.
Các triệu chứng viêm màng não ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ dưới 2 tuổi bao gồm:
-
Sốt cao đột ngột;
-
Cáu kỉnh và quấy khóc liên tục;
-
Bỏ ăn hoặc bỏ bú;
-
Mệt mỏi / hôn mê và không hoạt động bất thường
-
Có chỗ phồng mềm trên đỉnh đầu của em bé và các dấu hiệu cứng ở cơ thể và cổ.
Biến chứng viêm màng não
Viêm màng não là một bệnh rất nghiêm trọng, có thể điều trị được nhưng có thể đe dọa đến tính mạng. Trong trường hợp nặng, viêm màng não có thể gây co giật và hôn mê. Đôi khi tình trạng viêm cấu trúc não (viêm não) cũng có thể phát triển nếu điều trị quá muộn hoặc không thể kiểm soát nhiễm trùng. Khi điều trị chậm trễ cũng có nguy cơ phát triển tổn thương não vĩnh viễn, gây bệnh động kinh và các rối loạn chức năng não khác.
3. Các loại viêm màng não
Viêm màng não do virus
-
Đây là loại viêm màng não phổ biến nhất, nhưng may mắn thay, nó thường nhẹ và tự khỏi mà không gây ra các vấn đề lâu dài. Thông thường nhất, viêm màng não do virus gây ra bởi một nhóm virus được gọi là “enterovirus”, bao gồm các loại phổ biến như virus herpes simplex, HIV, quai bị và virus tây sông Nile. Những loại virus này ảnh hưởng đến con người thường xuyên nhất khi thời tiết ấm áp, nhưng có thể mắc phải bất cứ lúc nào trong năm.
Viêm màng não do vi khuẩn
Viêm màng não do vi khuẩn phát triển khi một số loại vi khuẩn có hại xâm nhập vào máu và sau đó di chuyển đến màng não (não và tủy sống), hoặc xâm nhập trực tiếp vào màng não sau khi bị nhiễm trùng tai, nhiễm trùng xoang, vỡ hộp sọ hoặc phẫu thuật.
Bệnh viêm não mô cầu do một loại vi khuẩn có tên là Neisseria meningitidis gây ra. Bệnh này rất nghiêm trọng và bao gồm viêm màng não và nhiễm trùng huyết). Có 4 loại viêm màng não do vi khuẩn não mô cầu chính: loại A, B, C và Y. Viêm màng não do não mô cầu có thể ảnh hưởng đến mọi người ở mọi lứa tuổi, nhưng nó phổ biến hơn ở trẻ em và thanh niên. Loại này có thể xảy ra vào bất kỳ thời điểm nào trong năm nhưng phổ biến hơn vào mùa đông và đầu xuân.
Các chủng vi khuẩn có thể gây viêm màng não do vi khuẩn là:
-
Streptococcus pneumoniae - hiện nay là nguyên nhân phổ biến nhất của bệnh viêm màng não do vi khuẩn ở trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ và người lớn. Loại này xảy ra khi vi khuẩn lây lan từ máu. Đôi khi nó được gọi là viêm màng não mủ, có xu hướng theo sau nhiễm trùng tai hoặc chấn thương đầu.
-
Neisseria meningitidis - thường gây nhiễm trùng đường hô hấp trên và ảnh hưởng đến thanh thiếu niên và thanh niên. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, vi khuẩn Neisseria meningitidis có khả năng gây thành dịch lớn. Hiện có 12 nhóm huyết thanh của N. meningitidis đã được xác định, sáu nhóm trong số đó (A, B, C, W, X và Y) được các chuyên gia cho rằng có khả năng gây dịch.
-
Haemophilus influenzae - từng là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh ở trẻ em.
-
Listeria monocytogenes - còn được gọi là listeria và được tìm thấy trong thực phẩm dễ nhiễm vi khuẩn bao gồm pho mát chưa được khử trùng và thịt nguội / thịt chế biến sẵn như xúc xích và thịt nguội.
Viêm màng não do nấm
-
Viêm màng não do nấm ít phổ biến hơn viêm màng não do virus hoặc vi khuẩn và gây ra bởi các sinh vật phát triển chậm xâm nhập vào màng não. Thông thường, điều này dẫn đến viêm màng não mãn tính, gây ra các triệu chứng lâu dài bao gồm nhức đầu, sốt, nôn mửa và tinh thần mờ mịt. Không giống như viêm màng não do virus và vi khuẩn, viêm màng não do nấm không lây. Những người bị suy yếu hệ thống miễn dịch / thiếu hụt miễn dịch có nguy cơ cao nhất, bao gồm những người bị HIV / AIDS, ung thư hoặc các bệnh tự miễn dịch.
Viêm màng não do ký sinh trùng
-
Naegleria fowleri là một loại ký sinh trùng đã được phát hiện trên khắp thế giới, mặc dù nó rất hiếm khi gây ra bệnh viêm màng não. Sinh vật siêu nhỏ này xâm nhập vào cơ thể qua mũi và di chuyển đến não. Nó được tìm thấy trong các nguồn nước ngọt ấm (chẳng hạn như hồ, sông và suối nước nóng) và cũng có thể được truyền qua đất bị ô nhiễm chảy ra hoặc nước ấm thải ra từ các nguồn công nghiệp. Hiếm khi, nó có thể mắc phải khi bơi trong các hồ bơi bị ô nhiễm hoặc bồn tắm nước nóng có sử dụng máy nước nóng.
Viêm màng não không do nhiễm trùng
-
Như đã mô tả ở trên, viêm màng não thường do vi khuẩn, virus, nấm hoặc các tác nhân lây nhiễm khác gây ra. Tuy nhiên, hiếm khi viêm màng não cũng có thể do viêm, kích ứng hóa chất hoặc do sự xâm nhập của các tế bào ác tính.
4. Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ gây viêm màng não
Mầm bệnh gây viêm màng não xâm nhập vào các cấu trúc của hệ thần kinh trung ương có thể qua 3 con đường: Bằng cách đi qua máu, bằng cách tăng sinh gần màng não sau khi bị nhiễm trùng hoặc bằng cách tiếp xúc trực tiếp.
Vi sinh vật gây viêm màng não có thể lây truyền từ người sang người qua các giọt dịch tiết đường hô hấp hoặc họng, thường xảy ra nhất khi tiếp xúc gần gũi. Sự lây truyền có thể xảy ra trong vòng khoảng 2 đến 4 ngày do tiếp xúc gần với người bị bệnh. Điều đáng ngạc nhiên là các chuyên gia cho rằng có tới 20% dân số mang vi khuẩn Neisseria meningitidis trong họng vào bất kỳ thời điểm nào, nhưng vi khuẩn này thường không gây nhiễm trùng trong hầu hết các trường hợp.
Các yếu tố nguy cơ phát triển bệnh viêm màng não bao gồm:
-
Đang hồi phục sau bệnh tật, chẳng hạn như cúm hoặc nhiễm trùng (đặc biệt là nhiễm trùng tai, xoang hoặc đường hô hấp).
-
Sống trong những khu vực gần nơi bệnh tật có thể dễ dàng lây lan, chẳng hạn như khuôn viên trường đại học / ký túc xá, trường nội trú.
-
Là phụ nữ mang thai, hoặc mẹ của trẻ sơ sinh. Khi mang thai, vi khuẩn listeria có khả năng đi qua hàng rào nhau thai và gây nhiễm trùng có thể gây tử vong cho thai nhi.
-
Người bị suy giảm hệ miễn dịch.
-
Do tiếp xúc với ô nhiễm phân, thường là khi không thực hành rửa tay đúng cách. Điều này cũng có thể xảy ra khi thay tã hoặc sử dụng nhà vệ sinh công cộng mà người bị nhiễm bệnh đã sử dụng.
-
Bất kỳ loại lây lan nào của dịch tiết ở mắt, mũi và miệng, hoặc dịch phồng rộp.
-
Gần đây bị một số loại phản ứng hóa học hoặc dị ứng thuốc.
-
Đang hồi phục sau bệnh ung thư hoặc bệnh viêm nhiễm như bệnh sarcoidosis.
-
Phục hồi sau phẫu thuật, đặc biệt là phẫu thuật có vết mổ ở đầu / hộp sọ. Phẫu thuật là rủi ro cao nhất ở những người bị AIDS, tiểu đường, nghiện rượu hoặc những người đang dùng thuốc ức chế miễn dịch.
5. Điều trị và kiểm soát bệnh viêm màng não
Điều trị viêm màng não sẽ phụ thuộc vào loại mà một người mắc phải (tác nhân gây bệnh cụ thể gây ra nhiễm trùng).
Cách điều trị viêm màng não phổ biến nhất là sử dụng kháng sinh tiêm tĩnh mạch (đối với viêm màng não do vi khuẩn) và / hoặc kháng sinh phổ rộng. Tùy thuộc vào các triệu chứng viêm màng não mà bệnh nhân đang gặp phải, các phương pháp điều trị khác cũng có thể cần thiết để kiểm soát sốc, phù não, co giật, xoang bị nhiễm trùng và mất nước. Đôi khi cần phẫu thuật để giải phóng các màng bị viêm ở não và giảm phù / áp lực xung quanh não.
Thuốc kháng sinh không có tác dụng điều trị bệnh viêm màng não do virus. Hầu hết các trường hợp bệnh do virus đều nhẹ và sẽ tự khỏi mà không cần điều trị trong vòng vài tuần (giống như bệnh cúm). Trong thời gian này, bệnh nhân nên nghỉ ngơi nhiều, tránh tiếp xúc gần với người khác và dùng thuốc giảm đau không kê đơn để giảm đau nhức cơ. Ngoài ra, đôi khi thuốc kháng virus được sử dụng để giúp đẩy nhanh quá trình chữa bệnh.
Các loại vaccin phòng bệnh viêm màng não bao gồm: vắc xin Haemophilus influenza type b, vaccin liên hợp phế cầu khuẩn và polysaccharide, và vaccin viêm màng não cầu khuẩn (MCV4). Những loại vắc xin này không có khả năng ngăn ngừa tất cả các trường hợp mắc bệnh não mô cầu và không có tác dụng điều trị bệnh nhiễm trùng đã phát triển. Hiện tại cũng không có vaccin nào để bảo vệ chống lại enterovirus, nguyên nhân phổ biến nhất của bệnh viêm màng não do virus.
Mặc dù đây là bệnh rất nghiêm trọng, nhưng bệnh viêm màng não có thể điều trị được. Ngoài thuốc, chúng ta còn có 5 cách tự nhiên để ngăn ngừa và quản lý các triệu chứng viêm màng não:
Bảo vệ những đứa trẻ dễ nhạy cảm nhất
-
Viêm màng não do vi khuẩn thường là “bệnh của trẻ em” và mắc phải từ người lớn mang mầm bệnh, thường là người trong gia đình trực hệ của đứa trẻ. Nếu một đứa trẻ bị bệnh, chúng phải luôn được giữ ở nhà, không để chúng ở nhà giữ trẻ hoặc đi học. Và nếu bạn là cha mẹ bị bệnh, bạn nên cẩn thận để được chăm sóc y tế và tránh tiếp xúc gần với con bạn trước khi bạn được bác sĩ làm sạch.
-
Bất cứ khi nào một đứa trẻ bị sốt, chúng phải được đưa đi khám bác sĩ ngay lập tức và tránh xa những đứa trẻ dễ mắc bệnh khác. Trẻ nhỏ nên được dạy luôn rửa tay sau khi đi vệ sinh và lý tưởng nhất là trước khi ăn hoặc đưa bất cứ thứ gì gần miệng.
Ngăn ngừa lây truyền từ người sang người
-
Bệnh nhân cần ở nhà khi bị bệnh và che miệng và mũi, đặc biệt là khi ho hoặc hắt hơi. Tránh tiếp xúc với người khác, luôn phải giữ khoảng cách và đeo khẩu trang khi có người.
-
Có thể ngăn ngừa bệnh viêm màng não lây lan bằng cách luôn rửa tay kỹ lưỡng và tránh tiếp xúc trực tiếp với bất kỳ ai bị bệnh. Cũng nên thận trọng khi dùng chung đồ dùng, nhất là đồ vệ sinh cá nhân.
Cải thiện chức năng miễn dịch và thực hành thói quen lành mạnh
-
Chúng ta có thể bảo vệ con em mình khỏi virus và vi khuẩn bằng cách chăm sóc bởi một chế độ ăn uống giàu chất chống oxy hóa, tăng miễn dịch, kháng sinh chống viêm tự nhiên, ngủ đủ giấc và nghỉ ngơi, tập thể dục thường xuyên và tránh dùng bất kỳ loại thuốc nào không cần thiết. Ngoài ra, có thể sử dụng thêm thảo dược và các chất bổ sung khác như vitamin và khoáng chất.
-
Có thể tăng cường khả năng bảo vệ bằng cách tránh bơi tắm ở các hồ hoặc suối khả nghi và sử dụng các biện pháp phòng ngừa để tránh bị côn trùng đốt (đặc biệt là từ muỗi và các côn trùng khác mang bệnh có thể lây sang người). Kiểm soát các loài gặm nhấm (chuột nhà và chuột cống) cũng có thể làm giảm khả năng bị nhiễm trùng do tiếp xúc với mầm bệnh.
Hãy hết sức thận trọng nếu đang mang thai
-
Phụ nữ mang thai cần phải cẩn thận tránh các loại thực phẩm có chứa vi khuẩn listeriosis, mặc dù trường hợp này rất hiếm. Thực phẩm có nhiều khả năng bị ô nhiễm bao gồm: pho mát mềm và các sản phẩm từ sữa chưa tiệt trùng, thịt chế biến sẵn như xúc xích và thịt nguội, thịt sống, trứng sống. Thịt, sữa và các sản phẩm động vật khác nên được nấu chín đến để tiêu diệt vi khuẩn listeria. Phụ nữ mang thai cũng nên làm theo những lời khuyên ở trên về việc giữ cho bản thân khỏe mạnh và hệ thống miễn dịch mạnh mẽ.
Kiểm soát đau và cứng khớp một cách tự nhiên
Dưới đây là một số cách để kiểm soát các triệu chứng viêm màng não như đau đầu, cứng cổ, sốt và đau nhức cơ thể:
-
Ngủ nhiều. Giữ cho phòng ngủ thoải mái bằng cách giữ nhiệt độ dễ chịu và hạn chế ánh sáng mạnh có thể gây đau đầu.
-
Thoa tinh dầu thảo dược (đã được pha với dầu nền) lên vùng bị đau. Tắm nhanh với thảo dược để giảm đau đầu và căng thẳng.
-
Dùng thuốc giảm đau không kê đơn nếu cơn đau đầu hoặc cứng cổ trở nên tồi tệ, chẳng hạn như acetaminophen hoặc ibuprofen.
-
Xoa bóp nhẹ nhàng lên những vùng đau nhức để cải thiện lưu lượng máu và giảm sưng tấy.
-
Ngăn ngừa mất nước bằng cách uống đủ nước trong ngày, nên dùng nước lọc, nước cam chanh, nước dừa và trà thảo mộc. Ăn thực phẩm giàu nước như trái cây và rau quả nếu có thể.
Nếu mắc phải viêm màng não, đặc biệt là trẻ nhỏ hoặc trẻ sơ sinh, hãy đến gặp bác sĩ ngay lập tức để được điều trị. Điều quan trọng là không nên đợi xem các triệu chứng viêm màng não có tự khỏi hay không, vì theo thời gian, bệnh thường nặng hơn và điều trị phức tạp hơn. Điều trị kịp thời sẽ giúp cứu sống được bệnh nhân và tránh các di chứng về sau, phòng được bệnh động kinh phát triển.
BS. Nguyễn Thùy Ngân (Thọ Xuân Đường)