Động kinh cảm quang là một loại bệnh động kinh trong đó các cơn động kinh có thể được kích hoạt bởi các hình ảnh trực quan như ánh đèn nhấp nháy nhanh hoặc đồ họa nhịp độ nhanh. Một cơn động kinh do kích hoạt thị giác gây ra được mô tả như một cơn động kinh phản xạ thị giác, một cơn co giật hình ảnh hoặc một cơn động kinh cảm quang. Co giật thị giác chụp là không phổ biến, ảnh hưởng khoảng 3% những người bị động kinh và hiếm khi ảnh hưởng đến những người không bị động kinh.
Cách tốt nhất để kiểm soát những cơn động kinh này là xác định những hình ảnh trực quan có thể khiến bệnh nhân phát sinh bệnh và thực hiện tất cả các bước để tránh những tác nhân kích thích thị giác này. Đôi khi, cần dùng thuốc chống co giật và điều trị lâu dài tận gốc với phương pháp
chữa động kinh bằng y học cổ truyền.
1. Triệu chứng bệnh động kinh cảm quang
Động kinh cảm quang có thể bắt đầu trong thời thơ ấu, nhưng cũng có thể bắt đầu ở độ tuổi muộn hơn. Co giật thị giác có thể bao gồm nhiều triệu chứng khác nhau, bao gồm rung và giật cơ thể không tự chủ (không chủ định) và / hoặc suy giảm ý thức.
Nhìn đèn sáng, đèn nhấp nháy, tương phản màu mạnh, hình ảnh chuyển động nhanh hoặc các mẫu hình học lặp đi lặp lại trong ít nhất vài giây trước khi xảy ra hiện tượng co giật cảm quang.
Các triệu chứng của co giật thị giác có thể bao gồm:
Động kinh co giật: Các cơn động kinh do kích thích thị giác gây ra có thể bao gồm giật hoặc lắc nhịp nhàng của một phần cơ thể như cánh tay, chân và / hoặc mặt ở một bên của cơ thể. Những cơn co giật này cũng có thể bao gồm các chuyển động lặp đi lặp lại của toàn bộ cơ thể.
Bệnh nhân có thể nhận thức được những gì đang xảy ra hoặc ý thức của bệnh nhân có thể bị suy giảm. Những cơn co giật này thường kéo dài trong vài giây nhưng có thể kéo dài vài phút hoặc lâu hơn. Chúng được mô tả là co giật trương lực hoặc co giật lớn.
Co giật myoclonic: Co giật myoclonic được đặc trưng bởi co giật nhịp điệu không tự chủ xen kẽ với thư giãn. Chúng thường chỉ ảnh hưởng đến một phần của cơ thể, chẳng hạn như cánh tay.
Nhìn chằm chằm: Một cơn động kinh không co giật, thường được mô tả là một cơn động kinh vắng mặt hoặc một cơn động kinh bất thường, cũng có thể bị kích thích bởi kích thích thị giác. Những cơn co giật này phổ biến ở trẻ em hơn người lớn và được đặc trưng bởi sự giảm sút nhận thức mà không có bất kỳ rung hoặc giật cơ thể kèm theo. Bệnh nhân sẽ không bị mất trương lực cơ hoặc ngã xuống. Các biểu hiện này thường kéo dài trong vài giây. Hầu hết mọi người tỉnh lại mà không cần điều trị y tế và ngay lập tức có thể hoạt động bình thường, thường không có bất kỳ hồi ức nào về sự kiện này.
Trạng thái tại chỗ: Sau khi hết co giật, bệnh nhân có thể cảm thấy kiệt sức hoặc mất phương hướng. Bệnh nhân có thể có cảm giác ngứa ran hoặc yếu một phần cơ thể. Các triệu chứng sau cơn này thường hết trong vòng 12 giờ đến 24 giờ.
Hãy nhớ rằng nếu đây là lần đầu tiên bệnh nhân cảm thấy cơ thể bị suy nhược sau cơn động kinh hoặc nếu đây là lần đầu tiên bệnh nhân bị co giật, cần phải đi khám ngay lập tức.
Nếu bệnh nhân hoặc gia đình có trẻ em mắc chứng động kinh nhạy cảm với ánh sáng, bệnh nhân cũng có thể bị các cơn động kinh do các kích thích khác gây ra.
Phân biệt với bệnh động kinh cảm quang: Không có gì lạ khi chúng ta cảm thấy khó chịu về thị giác hoặc đau đầu sau khi nhìn vào đèn sáng hoặc màu sắc tương phản. Người ta cũng thường thấy dư ảnh của đèn ngay cả khi đèn đã tắt. Nhiều người lo ngại rằng những trải nghiệm này có thể là chứng co giật thị giác hưởng. Tuy nhiên, những triệu chứng phổ biến này không phải là bệnh động kinh cảm quang. Trên thực tế, bệnh nhân có thể không cảm thấy khó chịu hoặc ác cảm với những hình ảnh trực quan trước hoặc sau khi bị co giật thị giác.
2. Nguyên nhân gây bệnh động kinh cảm quang
Có một số tác nhân có thể gây ra động kinh cảm quang. Những cơn động kinh này đã được báo cáo là do đèn khiêu vũ nhấp nháy, trò chơi điện tử và hình ảnh chuyển động. Hình ảnh động được nhìn thấy trên màn hình máy tính, ti vi hoặc màn hình phim cũng đã được báo cáo là cũng gây ra co giật thị giác. Các nguyên nhân bất thường bao gồm máy quét mã vạch, xe cấp cứu và đèn điện thoại nhấp nháy.
Bộ não hoạt động do hoạt động điện giữa các tế bào thần kinh. Co giật có thể xảy ra khi có những thay đổi trong hoạt động điện bình thường của não.
Một số yếu tố nguy cơ có thể gây ra cơn động kinh, bao gồm rượu, ma túy, sốt, thiếu ngủ và những yếu tố khác.
Các tác nhân gây co giật thị giác là một trong những nguyên nhân bất thường nhất của động kinh. Làm thế nào các kích thích thị giác gây ra co giật?
Sự thay đổi luân phiên của các ánh sáng màu khác nhau như đỏ đậm và xanh lam đậm hoặc ánh sáng nhấp nháy với tốc độ nhanh khoảng 12Hz có thể dẫn đến co giật thị giác ở một số người.
Đối với một số bệnh nhân, các kích thích thị giác có thể tạo ra hoạt động điện thất thường ở thùy chẩm, là phần não tích hợp thị giác. Thùy chẩm trái và phải nằm ở vùng sau (phía sau) xa nhất của não, ngay cạnh nhau. Hoạt động điện không thường xuyên và biến động này có thể nhanh chóng lan truyền từ thùy chẩm đến các vùng khác của não, gây ra một cơn co giật và / hoặc mất ý thức.
Nhiều người đã nghe nói về co giật thị giác. Đã có một báo cáo rộng rãi về những cơn co giật này vào ngày 16/12/1997, khi hơn 700 trẻ em và người lớn ở Nhật Bản được nhìn thấy trong bệnh viện vì những cơn co giật xảy ra khi xem phim hoạt hình. Khoảng 20% - 25% những người bị co giật do phim hoạt hình kích động đã từng trải qua ít nhất một lần co giật trước khi xem phim. Hầu hết những người bị co giật do ánh sáng hoạt hình nhanh của phim hoạt hình kích hoạt đều không bị co giật nữa trong khoảng thời gian 5 năm theo dõi.
Không rõ tại sao một số người bị động kinh lại có khuynh hướng co giật do thị giác. Một nghiên cứu cho thấy có thể có mối quan hệ giữa chứng động kinh cảm quang và sự thích ứng của não với các màu tương phản.
Co giật và động kinh cảm quang có xu hướng gia đình. Người ta đã tìm thấy một số gene có liên quan đến chứng động kinh, nhưng hiện tại chưa có gene cụ thể nào được xác định có liên quan đến chứng động kinh cảm quang.
Mặc dù việc tiếp xúc với ánh đèn nhấp nháy hoặc đồ họa chuyển động nhanh có thể gây ra cơn co giật ở người bị động kinh cảm quang, nhưng những kích thích này chưa bao giờ được phát hiện là nguyên nhân khiến bất kỳ ai phát triển bệnh động kinh.
3. Chẩn đoán bệnh động kinh cảm quang
Chứng động kinh co giật thị giác được đặc trưng bởi các cơn động kinh được kích thích bởi các yếu tố kích thích thị giác. Mặc dù không phổ biến nhưng một số người có thể bị co giật thị giác chỉ một lần và có thể không bao giờ trải qua cơn co giật này nữa.
Chẩn đoán của bệnh nhân dựa trên lịch sử động kinh; các bác sĩ cũng có thể yêu cầu một số xét nghiệm chẩn đoán để giúp xác định vấn đề của bệnh nhân. Nếu bệnh nhân hoặc những người khác đi cùng bệnh nhân nhớ lại rằng bệnh nhân đã tiếp xúc hoặc nhìn vào đèn nhấp nháy hoặc một kích hoạt hình ảnh khác trước khi lên cơn co giật, điều này có thể gợi ý rằng bệnh nhân đã có một giai đoạn co giật thị giác.
Điện não đồ (EEG) thường được sử dụng trong chẩn đoán bệnh động kinh. Một số chuyên gia cho rằng những người dễ bị co giật thị giác hưởng có thể có dạng điện não đồ đặc trưng bởi các gai ở thùy chẩm. Tuy nhiên, phát hiện này không nhất quán và bệnh nhân có thể bị động kinh cảm quang ngay cả khi điện não đồ của bệnh nhân không cho thấy gai ở thùy chẩm.
Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể khiến bệnh nhân tiếp xúc với yếu tố kích hoạt hình ảnh trong quá trình kiểm tra điện não đồ của bệnh nhân. Kích hoạt có thể gây ra cơn động kinh, hỗ trợ chẩn đoán bệnh động kinh cảm quang.
Thử nghiệm gợi mở bằng hình ảnh cũng có thể cho thấy một số bất thường đặc trưng, mặc dù điều này không nhất quán và không đáng tin cậy để chẩn đoán bệnh động kinh cảm quang.
• Chẩn đoán phân biệt
Co giật vùng chẩm rất hiếm, khác với co giật thị giác. Chúng bắt đầu ở thùy chẩm của não, nhưng không cần thiết được kích hoạt bởi các kích thích thị giác. Co giật vùng chẩm có thể gây ra ảo giác thị giác. Có thể do khối u hoặc dị dạng não của thùy chẩm gây ra.
Đối với nhiều người, đèn nhấp nháy, đèn sáng hoặc màu sáng có thể gây đau đầu, khó chịu, chóng mặt hoặc nhức mắt. Điều này thường được gọi là nhạy cảm ánh sáng hoặc sợ ánh sáng. Chứng sợ ám ảnh khá phổ biến và không thấy có liên quan đến co giật thị giác.
4. Xử trí
Nếu bệnh nhân bị chứng động kinh cảm quang, việc kiểm soát cơn động kinh của bệnh nhân sẽ tập trung vào việc tránh các kích thích thị giác gây ra cơn động kinh và / hoặc điều trị bằng thuốc chống co giật.
Nếu bệnh nhân đã biết đến yếu tố kích hoạt co giật, thì điều quan trọng là phải tránh nó. Động kinh không phải lúc nào cũng nguy hiểm, nhưng chúng có thể xảy ra.
Bệnh nhân có thể gặp chấn thương thể chất do hậu quả của một cơn động kinh. Và các chuyên gia cho rằng co giật thị giác có thể làm cho các cơn co giật thêm dễ xảy ra do sự thay đổi hoạt động điện của não.
Một số khuyến nghị về phòng ngừa co giật thị giác hưởng bao gồm:
- Đặt bộ lọc ánh sáng trên màn hình tivi hoặc máy tính của bệnh nhân để ngăn cản sự tương phản ánh sáng quá mức;
- Tránh các tình huống có đèn nhấp nháy;
- Nhìn ra xa các mẫu đồ họa và đèn nhấp nháy;
- Nếu bệnh nhân bị co giật tái phát, các bác sĩ có thể kê một hoặc nhiều loại thuốc chống co giật để ngăn ngừa bệnh. Lựa chọn thuốc chống co giật của bệnh nhân sẽ dựa trên một số yếu tố, bao gồm loại co giật (giảm co giật, myoclonic hoặc vắng mặt), tần suất xảy ra và liệu bệnh nhân có dùng bất kỳ loại thuốc nào khác có thể tương tác với thuốc chống co giật hay không;
Nếu bệnh nhân bị co giật, điều quan trọng là phải được đánh giá y tế kịp thời. Cơn co giật có thể là dấu hiệu của bệnh động kinh hoặc một tình trạng bệnh lý khác. Ngoài ra, những đợt này cần được chăm sóc y tế chuyên nghiệp. Nếu bệnh nhân phát hiện ra rằng bất kỳ yếu tố môi trường nào có xu hướng dẫn đến cơn co giật, hãy đảm bảo tránh tác nhân gây ra cơn động kinh đó. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có thể tránh được các yếu tố nguy cơ, vì vậy điều quan trọng là phải chuẩn bị sẵn sàng trong trường hợp bệnh nhân bị co giật.
BS. Nguyễn Thùy Ngân